Việc điều trị hay dự phòng bệnh loãng xương trước đây chủ yếu là dùng liệu pháp thay thế hormon (HRT), rồi trong vòng 10 năm trở lại đây, chủ yếu lại là liệu pháp dùng các bisphosphonat kết hợp với calci và vitamin D. Liệu pháp thay thế hormon sở dĩ bị gác lại, không dùng tới nữa là do tương quan giữa nguy cơ và lợi ích ngả nhiều về phía nguy cơ, nếu việc điều trị được tiến hành dài hạn, và cũng do đó liệu pháp bisphosphonat trở thành liệu pháp được lựa chọn trước tiên, do có hiệu quả rõ rệt chống gãy xương và do tính dung nạp tốt. Tuy nhiên, do dược lý học của loại thuốc này ngày càng được tìm hiểu rõ, nên đã cho phép tìm ra những loại thuốc dùng gián đoạn (tức là những loại thuốc chỉ cần dùng một lần trong nhiều ngày). Loại thuốc này làm cho việc điều trị đơn giản hơn, sự tuân thủ y lệnh cũng tốt hơn.
Ngoài ra, một họ thuốc mới đã được nghiên cứu và đưa vào sử dụng trong mấy năm gần đây, gọi là họ các SERM (Selective Estrogen Receptor Modulator), tức các chất điều biến thụ thể estrogen chọn lọc như thuốc raloxifene. Thuốc này chứng tỏ có khả năng giảm nguy cơ gẫy cột sống. Còn nhiều thuốc khác thuộc họ này đang được nghiên cứu.
Các thuốc này cho phép ngăn chặn quá trình tiêu xương, làm tăng sự khoáng hoá, làm tăng độ bền của xương. Nhưng các thuốc này không cải thiện được sự tạo xương, nghĩa là làm cho bộ xương phát triển thêm. Người ta cho rằng các chất tăng đồng hoá như parathormone, hay ở mức độ thấp hơn là chất stronti ranelat là có khả năng này.
Bài này trình bày chủ yếu các dữ liệu về dược lý học và về lâm sàng các bisphosphonat dùng gián đoạn. Còn về các thuốc khác, như các SERM hay parathormone sẽ được đề cập trong những bài sau.
Các bisphosphonat dùng gián đoạn
Hai chất bisphosphonat thuộc thế hệ 2 đầu tiên: alendronat và risedronat, ban đầu được dùng hàng ngày, sau đó được dùng một tuần một lần
Loại thuốc dùng một tuần một lần này chưa thực sự là loại thuốc dùng gián đoạn, vì về mặt dược lực học, thuốc dùng một tuần một lần vẫn gần giống với trường hợp dùng một ngày một lần. Cả hai trường hợp đều gây ức chế liên tục quá trình tiêu xương, sự ức chế này rất ổn định suốt thời gian điều trị. Như vậy ta chỉ nói tới hai chất bisphosphonat mới, dùng thực sự cách quãng là ibandronat và Zoledronat.
I. IBANDRONATI
Chất amino bisphonat có tác dụng rất mạnh này được chế tạo dưới hai dạng: dạng để uống và để tiêm tĩnh mạch.
1. Ibandronat để uống có tác dụng gián đoạn
Ibandronat có tác dụng gián đoạn đã được nghiên cứu trong nhiều thử nghiệm lâm sàng so sánh với placebo và so sánh với loại thuốc thông dụng dùng hàng ngày nhằm đánh giá khả năng ngăn chặn sự tiêu xương ở phụ nữ sau mãn kinh và hiệu quả trong dự phòng gãy xương ở những phụ nữ bị loãng xương. Cụ thể, trong một công trình nghiên cứu ngẫu nhiên, có đối chứng với placebo, đã thu nhập 240 phụ nữ sau mãn kinh có loãng xương, tuổi từ 55 đến 76. Bệnh nhân được chia làm 3 nhóm: một nhóm dùng placebo, một nhóm dùng ibandronat một cách gián đoạn: 20mg một lần, 2 ngày một lần trong 24 ngày, sau đó nghỉ 9 tuần lễ không điều trị, rồi lại tiếp tục một đợt mới như trên v.v… Sau 12 tháng điều trị thì nhóm dùng placebo được dùng Ibandronat hoặc theo chế độ liên tục hoặc theo chế độ gián đoạn tổng cộng trong 24 tháng. Các tiêu chí để đánh giá kết quả gồm có: sự tăng tỷ trọng khoáng trong xương (mật độ khoáng), và độ giảm các chỉ số của loãng xương. Việc dùng Ibandronat đã làm tăng mật độ khoáng ở đốt sống lưng, nếu dùng hàng ngày thì tăng + 5,6%, còn nếu dùng gián đoạn, thì tăng + 5,5%, nghĩa là hai cách dùng cho kết quả tương đương. Cũng như vậy, những phụ nữ dùng Iban- dronat thường xuyên hay gián đoạn đều làm tăng mật độ xương háng lên 3,4%. Các chỉ số khác của loãng xương cũng giảm xuống ở một mức độ như nhau đối với hai nhóm.