U trung thất (UTT) phát triển trên những mô nằm lạc chỗ bắt nguồn từ một đến ba lá thai (ngoại bì, trung bì, nôi bì) hoặc từ những mô trưởng thành đã được xác định. Chúng phát triển chậm, tiềm tàng trong một thời gian dài từ nhỏ tuổi cho đến khi trưởng thành, có khi tới vài chục năm [3], [10], [18].
Khi khối u còn nhỏ chưa gây hiên tượng chèn ép trung thất hoặc chưa tiến triển thành ác tính thì chưa xuất hiên những triệu chứng lâm sàng như đau ngực, ho khan, khó thở, sút cân... Vì vậy, nhiều khối UTT được phát hiện tình cờ do chụp X-quang lồng ngực trong những đợt khám sức khỏe định kỳ.
Trong quá trình phát triển khi khối u đột nhiên to lên nhanh thì các dấu hiệu lâm sàng xuất hiện như thở rít, nổi gồ thành ngực ở trẻ em.
Phần lớn UTT gây ra triệu chứng lâm sàng là những u có cấu trúc đặc như u tuyến ức, u quái. Ở trẻ em khoảng 2/3 trường hợp có biểu hiện lâm sàng, ở người lớn khoảng 1/3. Các triệu chứng phụ thuộc vào vị trí, kích thước, tình trạng bội nhiễm và tính chất ác tính hay lành tính của khối u [18], [50].
U tuyến ức (UTƯ) thường nằm ở trung thất trên và trung thất trước, hay gặp ở lứa tuổi 30-50, ít gặp lứa tuổi dưới 20 và trên 70, chiếm từ 20% đến 40% các u trung thất [4], [12], [77].
U tuyến ức có bệnh cảnh lâm sàng phức tạp, ngoài các triệu chứng chèn ép của một UTT, chúng còn liên quan tới bệnh nhược cơ, gặp từ 10 - 50% các trường hợp, đây là đặc điểm rất riêng biệt của UTƯ [39], [43].
Các xét nghiệm cận lâm sàng của UTƯ trước đây chủ yếu dựa vào phim X-quang ngực chuẩn nên còn nhiều hạn chế. Gần đây việc phát minh ra máy chụp cắt lớp vi tính (Cornack và Hounsfield giải Nobel 1979). Sau đó là chụp cộng hưởng từ - MRI (Lauterbur và Mansfield giải Nobel 2003) đã giúp chẩn đoán được chính xác vị trí, đặc điểm, mức độ chèn ép vào các thành phần giải phẫu lân cận và khả năng biến đổi ác tính của UTƯ.
Khi đã được chẩn đoán xác định là UTƯ thì phẫu thuật là phương pháp được lựa chọn đầu tiên và cấp thiêt, nhằm loại bỏ khối u và ngăn chạn sự tiên triển xâm lấn ác tính. Bởi lẽ tỷ lê ác tính hoá của UTƯ rất cao từ 30% đên 50%, nhưng nêu được phẫu thuật sớm có kêt quả rất tốt [34].
Từ những năm 50 của thê kỷ 20 đên nay, ngành phẫu thuật nói chung và phẫu thuật lồng ngực nói riêng đã có những tiên bô. Các tác giả Âu - Mỹ đã có nhiều công trình nghiên cứu về chẩn đoán xác định, phân loại mô bênh học và phẫu thuật cắt bỏ UTƯ.
ở Viêt Nam, UTƯ đã được nghiên cứu và phẫu thuật từ những năm 70 tại các bênh viên lớn như bênh viên Viêt Đức, bênh viên Lao và bênh phổi Trung ương, bênh viên Chợ Rẫy, bênh viên Quân đôi 103, nhưng đên nay còn ít công trình nghiên cứu về UTƯ. Tại Bênh viên K phẫu thuật lồng ngực được triển khai từ năm 1997, cho tới nay chưa có công trình nào nghiên cứu đầy đủ về UTƯ, do đó chúng tôi tiên hành đề tài: "Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và kết quả điều trị u tuyến ức tại Bệnh viện K " với hai mục tiêu:
1. Mô tả đặc điểm lâm sàng, cạn lâm sàng của u tuyến ức đã được điều tri tại Bệnh viện K.
2. Đánh giá kết quả điều tri u tuyến ức.