Khối u nguyên bào nuôi (UNBN) là khối u ác tính, phát triển từ thành phần lá nuôi của rau thai rồi xâm lấn vào tổ chức người mẹ. Khối UNBN bao gồm chửa trứng xâm lấn, ung thư nguyên bào nuôi. Khối UNBN phát triển chủ yếu sau chửa trứng 93%, sau sẩy thai đẻ, thai lưu 7% [4].
Trước những năm 1950, UNBN được điều trị chủ yếu bằng phẫu thuật nhưng kết quả rất thấp. Từ những năm 1950 trở đi việc điều trị chủ yếu dựa vào hoá chất và tỉ lệ thành công tăng lên cùng với những loại hoá chất mới. Điều trị hoá chất có ưu điểm lớn, có tới trên 95% bệnh UNBN được điều trị khỏi hoàn toàn kể cả có di căn [4].
Điều trị bảo tồn tử cung được áp dụng cho những bệnh nhân có tuổi dưới 40, chưa có đủ con. Trong các hoá chất điều trị UNBN có một số hoá chất tác động lên buồng trứng gây rối loạn kinh nguyệt. Trong những năm gần đây tại BVPSTW chưa có một công trình nào nghiên cứu về ảnh hưởng của điều trị hoá chất với kinh nguyệt của bệnh nhân UNBN. Xuất phát từ thực tiễn trên đề tài nghiên cứu với mục tiêu:
1 . Đánh giá tình hình kinh nguyệt trên bệnh nhân UNBN tử cung điều trị bảo tồn bằng methotrexat đơn thuần và EMA - CO .
2. Tìm hiểu một số biện pháp tránh thai được bệnh nhân sử dụng
I. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng nghiên cứu
Tất cả các bệnh nhân UNBN, được điều trị hoá chất, bảo tồn tử cung tại bệnh viện Phụ sản Trung Ương từ tháng 10/2006 đến tháng 4/2007, có đủ tiêu chuẩn vào diện nghiên cứu: 33 bệnh nhân.
Tiêu chuẩn lựa chọn đối tượng nghiên cứu
Các hồ sơ ghi đầy đủ các thông số thông tin cần thu thập.
Những bệnh nhân được chẩn đoán UNBN được điều trị hoá chất, bảo tồn tử cung.
Bệnh nhân được điều trị ít nhất 4 đợt hoá chất.
Tiêu chuẩn loại trừ
Bệnh nhân được chẩn đoán UNBN nhưng điều trị cắt tử cung
Những bệnh nhân được chẩn đoán UNBN tái phát.
Những bệnh nhân bỏ điều trị.
Các hồ sơ không ghi đầy đủ các thông tin cần thu thập.
Mục tiêu: (1) Đánh giá tình hình kinh nguyệt trên bệnh nhân UNBN tử cung điều trị bảo tồn bằng methotrexat đơn thuần và EMA - CO. (2) Tìm hiểu một số biện pháp tránh thai được bệnh nhân sử dụng. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: tất cả các bệnh nhân UNBN tử cung , được điều trị hoá chất bảo tồn tại bệnh viện Phụ sản Trung Ương từ tháng 10/2006 đến tháng 4/2007: 33 bệnh nhân. Sử dụng phương pháp nghiên cứu hồi cứu mô tả cắt ngang. Kết quả: bệnh nhân điều trị hóa chất bảo tồn tử cung theo phác đồ EMA - CO: 54,5% bị rong huyết trước khi điều trị, 90,1% bị mất kinh trên hai tháng trong thời gian điều trị; bệnh nhân đièu trị MTX đơn thuần: 77,3% bị rong huyết trước khi điều trị, 4,5% bị mất kinh trên hai tháng trong thời gian điều trị. Bệnh nhân sử dụng các biện pháp tránh thai trong thời gian điều trị: Bao cao su 42,4%; Không quan hệ tình dục 48,5%. Kết luận: tỷ lệ bệnh nhân u nguyên bào nuôi bị mất kinh khi điều trị hoá chất phối hợp lớn hơn điều trị hoá chất đơn thuần bằng methotrexat và tỷ lệ không quan hệ tình dục khi điều trị cao.