Theo ước tính của Tổ chức Y tế Thế giới (TCYTTG), hiện nay có tới 2,5 ñến 3 tỷ người sống trong vùng nguy cơ mắc bệnh, mỗi năm có tới 50 - 100 triệu trường hợp mắc SD và 500.000 trường hợp SXHD phải nhập viện, trong ñó 90 % là trẻ em dưới 15 tuổi [2]. Ở Việt Nam bệnh SD/SXHD xuất hiện ở 61/61 tỉnh thành, chủ yếu tập trung ở miền Nam và là một trong 10 bệnh có tỷ lệ mắc và tử vong cao nhất, số mắc ñứng thứ 5, tử vong ñứng thứ nhất trong 26 bệnh truyền nhiễm gây dịch [5].
Việc phát hiện sớm và ñúng căn nguyên gây bệnh sẽ giúp ích rất nhiều cho ñiều trị có hiệu quả, giảm tỷ lệ tử vong và dự báo sớm ñược vụ dịch SD/SXHD có thể xảy ra. Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, những nghiên cứu về bệnh SD/SXHD ñã giúp cho việc chẩn ñoán căn nguyên của bệnh SD/SXHD ngày càng hoàn thiện hơn. Hiện nay, bên cạnh các kỹ thuật miễn dịch phát hiện kháng thể, còn có các kỹ thuật miễn dịch phát hiện kháng nguyên (KN) NS1 của virus dengue trong máu của bệnh nhân (BN) bị nhiễm virus dengue. Tuy nhiên, việc chọn lựa kỹ thuật chẩn ñoán thích hợp tùy thuộc vào từng thời ñiểm lấy máu của bệnh nhân ñể áp dụng cho các phòng xét nghiệm (XN) lâm sàng là rất cần thiết. Đó là lý do chúng tôi tiến hành ñề tài với mục tiêu: So sánh kỹ thuật RT-PCR với các kỹ thuật phát hiện KN NS1 và phát hiện KT kháng virus dengue ñể ứng dụng vào các giai ñoạn lâm sàng thích hợp.
So sánh kỹ thuật RT-PCR với các kỹ thuật phát hiện KN NS1 và phát hiện KT kháng virus dengue ñể ứng dụng vào các giai ñoạn lâm sàng thích hợp. Đối tượng nghiên cứu: 242 mẫu máu của những BN ñược chẩn ñoán lâm sàng là SD/SXHD vào ñiều trị tại bệnh viện Bạch Mai trong năm 2006 và 6 tháng ñầu năm 2007. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tiến cứu và mô tả cắt ngang tại phòng xét nghiệm. Kết quả và kết luận: So sánh các kỹ thuật ñể ứng dụng vào các giai ñoạn lâm sàng thích hợp: Kỹ thuật ELISA phát hiện KT ñã phát hiện sớm KT IgM ñặc hiệu virus dengue sau 3 ngày mắc bệnh và ñạt kết quả cao trên 90 % tại các ngày 5, 6, 7 của bệnh. Khả năng phát hiện KT IgM bằng kỹ thuật sắc ký miễn dịch chỉ ñạt tỷ lệ cao ở ngày thứ 7 của bệnh (79,1 %). Kỹ thuật ELISA phát hiện KN NS1 và kỹ thuật RT-PCR phát hiện ARN virus rất có giá trị chẩn ñoán trong 3 ngày ñầu tiên của bệnh với tỷ lệ (+) tương ứng là 68,2% và 75%. Từ ngày thứ 4 trở ñi, khả năng phát hiện ARN virus bằng kỹ thuật RT-PCR giảm ñáng kể trong khi kỹ thuật ELISA phát hiện KN vẫn phát hiện ñược KN NS1 trong máu với tỷ lệ cao ngay cả khi KT IgM ñặc hiệu virus dengue xuất hiện (67,4 % NS1 dương tính ở ngày thứ 7 của bệnh). Kỹ thuật RT-PCR phù hợp ñể chẩn ñoán trong 3 ngày ñầu của bệnh; Nên áp dụng kỹ thuật SKMD và kỹ thuật ELISA phát hiện kháng thể từ ngày thứ 4 trở ñi; Kỹ thuật ELISA phát hiện KN NS1: từ ngày thứ 1 - 9.