Phẫu thuật múc nội nhãn kết hợp độn bi silicon trong chóp cơ

About this capture

Common Crawl

Từ thế kỷ XV, bỏ nhãn cầu được coi là phương pháp điều trị mắt mất chức năng, đau nhức hay biến dạng nhãn cầu ảnh hưởng thẩm mỹ. Trong một số trường hợp bệnh lý như khối u nhãn cầu ác tính hay nguy cơ nhãn viêm đồng cảm, bỏ nhãn cầu là cách điều trị bệnh hiệu quả duy nhất [13].

Từ thế kỷ XV, bỏ nhãn cầu được coi là phương pháp điều trị mắt mất chức năng, đau nhức hay biến dạng nhãn cầu ảnh hưởng thẩm mỹ. Trong một số trường hợp bệnh lý như khối u nhãn cầu ác tính hay nguy cơ nhãn viêm đồng cảm, bỏ nhãn cầu là cách điều trị bệnh hiệu quả duy nhất [13].

Mất nhãn cầu gây ảnh hưởng  rất lớn về thể      chất và tinh  thần với                 các

Mất nhãn cầu gây ảnh hưởng  rất lớn về thể      chất và tinh  thần với                 các

bệnh nhân ở bất kỳ lứa tuổi nào. Không chỉ thị giác hai mắt, thị trường hai mắt bị mất mà khuôn mặt cũng thay đổi. Ngoài ra, tính tự tin của bản thân bệnh nhân bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Một vấn đề nổi bật cần giải quyết sau khi bỏ nhãn cầu là lắp mắt giả đảm bảo tính cân đối hai mắt và phòng tránh các biến đổi thứ phát xảy ra ở hốc mắt do không có nhãn cầu. Các biến đổi hốc mắt bao gồm teo xơ tổ chức hốc mắt, co rút cơ, xơ hóa kết mạc dẫn đến biến dạng mi, cùng đồ, gây di lệch hay rơi mắt giả [41].

bệnh nhân ở bất kỳ lứa tuổi nào. Không chỉ thị giác hai mắt, thị trường hai mắt bị mất mà khuôn mặt cũng thay đổi. Ngoài ra, tính tự tin của bản thân bệnh nhân bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Một vấn đề nổi bật cần giải quyết sau khi bỏ nhãn cầu là lắp mắt giả đảm bảo tính cân đối hai mắt và phòng tránh các biến đổi thứ phát xảy ra ở hốc mắt do không có nhãn cầu. Các biến đổi hốc mắt bao gồm teo xơ tổ chức hốc mắt, co rút cơ, xơ hóa kết mạc dẫn đến biến dạng mi, cùng đồ, gây di lệch hay rơi mắt giả [41].

Múc nội nhãn có đặt khuôn hốc mắt đã được đề cập đến từ thế kỷ XVIII. Nhiều kiểu khuôn đã được thiết kế bằng nhiều loại chất liệu khác nhau với mục đích đạt được phù hợp sinh học, không gây nhiễm trùng và thải loại khuôn hay hở khuôn. Chất liệu có lỗ như hydroxyapatite hay polyethylene là loại được sử dụng phổ biến hiện nay để làm khuôn hốc mắt [39]. Tuy nhiên giá thành rất cao và trong y văn hiện tượng thải khuôn vẫn được báo cáo hàng năm [20].

Múc nội nhãn có đặt khuôn hốc mắt đã được đề cập đến từ thế kỷ XVIII. Nhiều kiểu khuôn đã được thiết kế bằng nhiều loại chất liệu khác nhau với mục đích đạt được phù hợp sinh học, không gây nhiễm trùng và thải loại khuôn hay hở khuôn. Chất liệu có lỗ như hydroxyapatite hay polyethylene là loại được sử dụng phổ biến hiện nay để làm khuôn hốc mắt [39]. Tuy nhiên giá thành rất cao và trong y văn hiện tượng thải khuôn vẫn được báo cáo hàng năm [20].

Bi silicon vẫn là loại chất liệu không lỗ được sử dụng phổ biến ở Việt nam vì giá thành thấp, dễ sản xuất với nhiều kích cỡ khác nhau. Cũng như với các chất liệu độn không có lỗ khác, hiện tượng hở lộ và thải bi rất hay xảy ra nhất là khi kích thước bi lớn hơn thể tích của vỏ củng mạc [4, 45].

Bi silicon vẫn là loại chất liệu không lỗ được sử dụng phổ biến ở Việt nam vì giá thành thấp, dễ sản xuất với nhiều kích cỡ khác nhau. Cũng như với các chất liệu độn không có lỗ khác, hiện tượng hở lộ và thải bi rất hay xảy ra nhất là khi kích thước bi lớn hơn thể tích của vỏ củng mạc [4, 45].

Năm 2007, Giáo sư Howard (Mỹ) khi sang làm việc tại Bệnh viện Mắt Trung ương đã giới thiệu phương pháp đặt bi silicon trong chóp cơ nhằm đảm bảo bi được hai lớp củng mạc và một lớp kết mạc che phủ phía trước, khả năng hở bi và thải loại giảm. Kể từ thời điểm đó, phương pháp này đã được một số bác sỹ áp dụng với kết quả tốt. Đặc biệt phương pháp này cho phép có thể đặt lại bi silicon đã bị thải loại sau khi làm phương pháp kinh điển (đặt bi trong vỏ củng mạc) thất bại.

Năm 2007, Giáo sư Howard (Mỹ) khi sang làm việc tại Bệnh viện Mắt Trung ương đã giới thiệu phương pháp đặt bi silicon trong chóp cơ nhằm đảm bảo bi được hai lớp củng mạc và một lớp kết mạc che phủ phía trước, khả năng hở bi và thải loại giảm. Kể từ thời điểm đó, phương pháp này đã được một số bác sỹ áp dụng với kết quả tốt. Đặc biệt phương pháp này cho phép có thể đặt lại bi silicon đã bị thải loại sau khi làm phương pháp kinh điển (đặt bi trong vỏ củng mạc) thất bại.

Tuy nhiên, vì khoảng trong chóp cơ hẹp nên việc đặt bi kích thước lớn gặp khó khăn, khả năng di lệch bi ra phía ngoài dễ xảy ra. Các bác sỹ khoa chấn thương Bệnh viện mắt trung ương đã phối hợp cắt thị thần kinh hay cắt củng mạc quanh thị thần kinh nhằm mở rộng thể tích khoang trong chóp cơ, bi được đặt vào dễ dàng, ít bị di lệch. Hơn nữa cắt thị thần kinh còn có tác dụng phòng nhãn viêm đồng cảm đã xảy ra ở một số bệnh nhân múc nội nhãn [20].

Tuy nhiên, vì khoảng trong chóp cơ hẹp nên việc đặt bi kích thước lớn gặp khó khăn, khả năng di lệch bi ra phía ngoài dễ xảy ra. Các bác sỹ khoa chấn thương Bệnh viện mắt trung ương đã phối hợp cắt thị thần kinh hay cắt củng mạc quanh thị thần kinh nhằm mở rộng thể tích khoang trong chóp cơ, bi được đặt vào dễ dàng, ít bị di lệch. Hơn nữa cắt thị thần kinh còn có tác dụng phòng nhãn viêm đồng cảm đã xảy ra ở một số bệnh nhân múc nội nhãn [20].

Phương pháp múc nội nhãn, đặt bi trong chóp cơ đã được thực hiện ba năm (2007-2009) nhưng chưa được đánh giá cụ thể. Chúng tôi thực hiện đề tài này nhằm những mục tiêu sau:

Phương pháp múc nội nhãn, đặt bi trong chóp cơ đã được thực hiện ba năm (2007-2009) nhưng chưa được đánh giá cụ thể. Chúng tôi thực hiện đề tài này nhằm những mục tiêu sau:

1/ Đánh giá kết quả phẫu thuật múc nội nhãn đặt bi chóp cơ.

1/ Đánh giá kết quả phẫu thuật múc nội nhãn đặt bi chóp cơ.

2/ Nhận định một số đặc điểm kỹ thuật của phương pháp.

2/ Nhận định một số đặc điểm kỹ thuật của phương pháp.


Phẫu thuật múc nội nhãn kết hợp độn bi silicon trong chóp cơ “


   

IDM

( TẮT NÓ TRƯỚC KHI TẢI TÀI LIỆU )

KHI CÓ LỖI LIÊN QUAN ĐẾN NẠPTRỪ ĐIỂM, TÀI LIỆU CHỈ CÓ MỘT PHẦN XIN VUI LÒNG LIÊN HÊ BỘ PHẬN HỖ TRỢ.

NẠP

TRỪ

CHỈ CÓ MỘT PHẦN

( 24/24H )

( 8AM – 8PM )

|

|

|

|

|