Phục hổi vận động liệt nửa người sau chấn thương sọ não kín bằng điện châm kết hợp vận động trị liệu

About this capture

Common Crawl

Chấn thương sọ não (CTSN) kín là nguyên nhân hàng đầu dẫn đên tử vong và tàn phố do chấn thương ở lứa tuổi thành niên và nam giới [9], [26], [28]. CTSN kín xảy ra khi có môt lực tác đông bất ngờ gây tổn thương não và gây gián đoạn chức năng não bình thường. Hâu quả có thể dẫn đên những thay đổi sâu sắc về thể chất, nhân thức, tâm lý, cảm xúc và hiêu ứng xã hôi [12], [53]. CTSN kín là nguyên nhân phổ biên nhất của tử vong và tàn tât trong số các bênh thần kinh ở đầu thâp niên của thể kỉ 21 này [28].

Chấn thương sọ não (CTSN) kín là nguyên nhân hàng đầu dẫn đên tử vong và tàn phố do chấn thương ở lứa tuổi thành niên và nam giới [9], [26], [28]. CTSN kín xảy ra khi có môt lực tác đông bất ngờ gây tổn thương não và gây gián đoạn chức năng não bình thường. Hâu quả có thể dẫn đên những thay đổi sâu sắc về thể chất, nhân thức, tâm lý, cảm xúc và hiêu ứng xã hôi [12], [53]. CTSN kín là nguyên nhân phổ biên nhất của tử vong và tàn tât trong số các bênh thần kinh ở đầu thâp niên của thể kỉ 21 này [28].

Nguyên nhân gây CTSN phổ biên là do tai nạn giao thông chiêm 76,14%, còn lại là do tai nạn lao đông chiêm 13,64% và các hành vi bạo lực khác chiêm khoảng 9,09% [21], [46]

Nguyên nhân gây CTSN phổ biên là do tai nạn giao thông chiêm 76,14%, còn lại là do tai nạn lao đông chiêm 13,64% và các hành vi bạo lực khác chiêm khoảng 9,09% [21], [46]

Theo Tổ Chức Y tố Thê Giới (TCYTTG), mỗi ngày thê giới gần 3000 người tử vong, 15000 người tàn tât suốt đời do tai nạn giao thông, trong đó CTSN chiêm 45 – 50% [21] [26]. Theo thống kê tỷ lê CTSN do tai nạn giao thông tại Hà Nôi là 77,1%, tại thành phố Hổ Chí Minh là 86%, Đà Nang là 72%, [26].

Theo Tổ Chức Y tố Thê Giới (TCYTTG), mỗi ngày thê giới gần 3000 người tử vong, 15000 người tàn tât suốt đời do tai nạn giao thông, trong đó CTSN chiêm 45 – 50% [21] [26]. Theo thống kê tỷ lê CTSN do tai nạn giao thông tại Hà Nôi là 77,1%, tại thành phố Hổ Chí Minh là 86%, Đà Nang là 72%, [26].

ở Viêt Nam ngày nay cùng với sự phát triển về dân số và kinh tê là sự gia tăng nhanh chóng về các phương tiên giao thông và người tham gia giao thông chưa chấp hành luât lê giao thông môt cách tự giác do vây số lượng nạn nhân bị CTSN do tai nạn giao thông ngày càng nhiều [15], [21]. Mät khác tỷ lê CTSN do những tai nạn bất cẩn, tai nạn sinh hoạt, hành hung do mâu thuẫn trong công đổng, do rượu, bia… ngày càng gia tăng [3].

ở Viêt Nam ngày nay cùng với sự phát triển về dân số và kinh tê là sự gia tăng nhanh chóng về các phương tiên giao thông và người tham gia giao thông chưa chấp hành luât lê giao thông môt cách tự giác do vây số lượng nạn nhân bị CTSN do tai nạn giao thông ngày càng nhiều [15], [21]. Mät khác tỷ lê CTSN do những tai nạn bất cẩn, tai nạn sinh hoạt, hành hung do mâu thuẫn trong công đổng, do rượu, bia… ngày càng gia tăng [3].

Theo Dương Chạm Uyên và công sự (1991) tỷ lê bênh nhân sống sót sau CTSN chiêm 30 – 40%. Những năm gấn đây nhờ có những kỹ thuât tiên tiên trong chẩn đoán, cấp cứu và điều trị CTSN kịp thời, chính xác thì tỷ lê tử vong đã giảm đáng kể [46], điều đó có nghĩa là tỷ lê người bị di chứng và tàn tât do chấn thương sọ não đang ngày càng gia tăng [9], [57]. Bên cạnh đó những bênh nhân sống sót sau chấn thương sọ não thường có các di chứng về mặt thể chất (ví dụ: khả năng đi lại, khả năng thăng bằng, sự phối hợp thực hiên đông tác, các kỹ năng vân đông tinh tế), hành vi (ví dụ: kích đông), nhận thức (ví dụ: rối loạn khả năng học tập và ghi nhớ), các thay đổi về mặt cảm xúc (ví dụ: trầm cảm). Hậu quả của CTSN không chỉ ảnh hưởng đến thu nhập và mức sống riêng của từng cá nhân, mà còn ảnh hưởng đến cả cuôc sống của toàn thể gia đình và như thế đã làm ảnh hưởng đến toàn xã hôi [41], [49], [54].

Theo Dương Chạm Uyên và công sự (1991) tỷ lê bênh nhân sống sót sau CTSN chiêm 30 – 40%. Những năm gấn đây nhờ có những kỹ thuât tiên tiên trong chẩn đoán, cấp cứu và điều trị CTSN kịp thời, chính xác thì tỷ lê tử vong đã giảm đáng kể [46], điều đó có nghĩa là tỷ lê người bị di chứng và tàn tât do chấn thương sọ não đang ngày càng gia tăng [9], [57]. Bên cạnh đó những bênh nhân sống sót sau chấn thương sọ não thường có các di chứng về mặt thể chất (ví dụ: khả năng đi lại, khả năng thăng bằng, sự phối hợp thực hiên đông tác, các kỹ năng vân đông tinh tế), hành vi (ví dụ: kích đông), nhận thức (ví dụ: rối loạn khả năng học tập và ghi nhớ), các thay đổi về mặt cảm xúc (ví dụ: trầm cảm). Hậu quả của CTSN không chỉ ảnh hưởng đến thu nhập và mức sống riêng của từng cá nhân, mà còn ảnh hưởng đến cả cuôc sống của toàn thể gia đình và như thế đã làm ảnh hưởng đến toàn xã hôi [41], [49], [54].

Nước ta ngày nay, hầu hết các bênh nhân bị CTSN chỉ được điều trị tích cực qua giai đoạn nguy kịch đến tính mạng mà không được tiếp cận với viêc phục hổi chức năng [11], [17]. Chỉ có môt số ít ỏi tìm đến các bênh viên để được điều trị bằng châm cứu hay phục hổi chức năng (PHCN) nhưng thường ở giai đoạn muôn, mà không được điều trị phục hổi sớm, điều này dẫn tới nhiều biến chứng do bất đông sinh ra, như: loét điểm tỳ đè, nhiễm khuẩn tiết niêu, viêm phổi, teo cơ, cứng khớp, co rút… gây khó khăn cho sinh hoạt cá nhân hàng ngày và thậm chí là khó khăn cho cả người phục vụ (khi bản thân không tự phục vụ được)…trở thành gánh nặng cho gia đình và cho xã hôi.

Nước ta ngày nay, hầu hết các bênh nhân bị CTSN chỉ được điều trị tích cực qua giai đoạn nguy kịch đến tính mạng mà không được tiếp cận với viêc phục hổi chức năng [11], [17]. Chỉ có môt số ít ỏi tìm đến các bênh viên để được điều trị bằng châm cứu hay phục hổi chức năng (PHCN) nhưng thường ở giai đoạn muôn, mà không được điều trị phục hổi sớm, điều này dẫn tới nhiều biến chứng do bất đông sinh ra, như: loét điểm tỳ đè, nhiễm khuẩn tiết niêu, viêm phổi, teo cơ, cứng khớp, co rút… gây khó khăn cho sinh hoạt cá nhân hàng ngày và thậm chí là khó khăn cho cả người phục vụ (khi bản thân không tự phục vụ được)…trở thành gánh nặng cho gia đình và cho xã hôi.

Để giúp bênh nhân CTSN phòng ngừa các di chứng vận đông, thích nghi với hoàn cảnh khiếm khuyết của bản thân và phát huy tốt nhất các khả năng còn lại để có cuôc sống đôc lập tối đa, chúng tôi tiến hành đề tài: “Đánh giá phục hổi vận động liệt nửa người sau chấn thương sọ não kín bằng điện châm kết hợp vận động trị liệu”, với các mục tiêu:

Để giúp bênh nhân CTSN phòng ngừa các di chứng vận đông, thích nghi với hoàn cảnh khiếm khuyết của bản thân và phát huy tốt nhất các khả năng còn lại để có cuôc sống đôc lập tối đa, chúng tôi tiến hành đề tài: “Đánh giá phục hổi vận động liệt nửa người sau chấn thương sọ não kín bằng điện châm kết hợp vận động trị liệu”, với các mục tiêu:

1.    Bước đầu tìm hiểu môt số đặc điểm dịch tễ học của bênh nhân liêt nửa người do chấn thương sọ não kín trước khi áp dụng các biên pháp can thiêp.

1.    Bước đầu tìm hiểu môt số đặc điểm dịch tễ học của bênh nhân liêt nửa người do chấn thương sọ não kín trước khi áp dụng các biên pháp can thiêp.

2.    Đánh giá kết quả phục hổi vận đông liêt nửa người bằng điên châm kết hợp vận đông trị liêu.

2.    Đánh giá kết quả phục hổi vận đông liêt nửa người bằng điên châm kết hợp vận đông trị liêu.


Phục hổi vận động liệt nửa người sau chấn thương sọ não kín bằng điện châm kết hợp vận động trị liệu “


   

IDM

( TẮT NÓ TRƯỚC KHI TẢI TÀI LIỆU )

KHI CÓ LỖI LIÊN QUAN ĐẾN NẠPTRỪ ĐIỂM, TÀI LIỆU CHỈ CÓ MỘT PHẦN XIN VUI LÒNG LIÊN HÊ BỘ PHẬN HỖ TRỢ.

NẠP

TRỪ

CHỈ CÓ MỘT PHẦN

( 24/24H )

( 8AM – 8PM )

|

|

|

|

|